PHẦN I. SỰ RA ĐỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một quốc gia có chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Bản Tuyên ngôn độc lập là văn bản pháp lý đầu tiên vô cùng quan trọng, đặt nền móng để bảo vệ nền độc lập, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng các thiết chế, trong đó có các cơ quan tư pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan Công tố. Thời kỳ đầu, chức danh Công tố ủy viên và hoạt động công tố nằm trong hệ thống Toà án nhưng độc lập với hoạt động xét xử của Tòa án. Hoạt động công tố thời kỳ này gồm: Chỉ đạo điều tra, trực tiếp điều tra một số loại tội phạm; quyết định việc truy tố; buộc tội bị cáo trước tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án và giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ, cải tạo và thi hành án; tham gia trong một số loại việc dân sự quan trọng để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội.
Đến năm 1958, chức danh Công tố ủy viên và hoạt động công tố được tách ra khỏi hệ thống Tòa án, trở thành hệ thống cơ quan Viện công tố trực thuộc Chính phủ. Hệ thống Viện công tố ở các địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc, vừa chịu sự lãnh đạo của Viện công tố cấp trên về chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính cùng cấp. Hệ thống Viện công tố được tổ chức thành bốn cấp, phù hợp với hệ thống Tòa án, bao gồm: Viện công tố Trung ương; Viện công tố phúc thẩm được tổ chức ở các khu vực: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Khu tự trị Việt Bắc, Khu tự trị Thái Mèo; Viện công tố cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện công tố khu đặc biệt Hồng Quảng, Viện công tố khu đặc biệt Vĩnh Linh; Viện công tố cấp huyện (các huyện, thị trấn lớn và tương đương) và Viện công tố quân sự các cấp. Viện công tố có chức năng, nhiệm vụ: Điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm tội; giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra, xét xử, thi hành các bản án về hình sự, dân sự; giam giữ và cải tạo; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân.
Vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới: Miền Bắc tập trung củng cố, cải tạo xã hội chủ nghĩa và tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam tiếp tục đấu tranh giải phóng, thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước. Trước yêu cầu mới của cuộc cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa, cải cách bộ máy nhà nước ta, thì việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu. Xuất phát từ bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức Nhà nước, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về pháp chế thống nhất (theo Lênin pháp chế là phải thống nhất và để đấu tranh có hiệu quả với chủ nghĩa cục bộ địa phương thì phải thành lập cơ quan Viện kiểm sát có quyền và phận sự làm một việc là “bảo đảm cho pháp chế được hiểu biết thống nhất và thông suốt trong toàn nước cộng hòa, bất kể những đặc điểm của địa phương và sự can thiệp của nhà chức trách địa phương”), học tập kinh nghiệm quốc tế, kế thừa kinh nghiệm tổ chức hoạt động cơ quan Công tố trong những năm đầu của công cuộc kháng chiến kiến quốc, Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận chế định Viện kiểm sát nhân dân, trong đó xác định vị trí, chức năng và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam, cụ thể: Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền trong phạm vi do luật định. Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20-LCT công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc chung của bộ máy Nhà nước ta, đồng thời có một nguyên tắc đặc thù là tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành. Việc xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy và nguyên tắc tổ chức theo hệ thống dọc của Viện kiểm sát nhân dân là một bước tiến mới bảo đảm cho việc thực hiện chế độ pháp chế thống nhất trong lịch sử nước ta.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 là cơ sở pháp lý quan trọng đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước ta và kể từ đó, ngày 26/7 hằng năm trở thành ngày truyền thống của ngành Kiểm sát nhân dân. Cũng tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Hoàng Quốc Việt tại Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao (khi đồng chí giữ chức Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao) |
( còn tiếp )
Theo Kiemsat.vn