1. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ tư pháp và cơ quan tư pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” đối với những người làm công tác tư pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc lần thứ tư được tổ chức vào tháng 02 năm 1948. Do hoàn cảnh đất nước đang kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy không thể đến dự nhưng Người vẫn hết sức quan tâm, gửi Thư động viên, nhắc nhở toàn ngành Tư pháp tiếp tục phải có những đóng góp to lớn trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến. Hội nghị đã thảo luận và quyết định 09 nhóm vấn đề quan trọng của công tác tư pháp trong thời kỳ kháng chiến, trong đó có vấn đề về công tố”. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh về niềm tự hào nghề nghiệp, đồng thời yêu cầu cần tiếp tục rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,… Người viết: “Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Phụng công, thủ pháp là chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật (làm việc công phải giữ đúng pháp luật); phải nhận thức rõ chúng ta làm cách mạng là để chống lại tình trạng bất công, bất bình đẳng, vì vậy, phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào. Về chí công vô tư, theo Bác: Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Tại các Hội nghị học tập của cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1950 và Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1957, Người nói: “… các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”; “… Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta, đó là nhiệm vụ tích cực. Đồng thời, có một nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta, phá hoại lợi ích của nhân dân”.
Tiếp thu tư tưởng của Người, tại Hội nghị ngành Công tố (ngày 10/02/1960), đồng chí Phạm Văn Đồng – Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhấn mạnh: “… Công tác công tố phải phục tùng và phục vụ đường lối chung. Chính trị đòi hỏi cái gì là công tố phải làm đúng cái đó, không thể thoát ly. Công tố phải gắn liền với chính trị, tách rời chính trị thì không biết làm gì… Các đồng chí vì trách nhiệm bản thân của mình phải làm đúng pháp luật và đòi hỏi những người khác cũng phải làm đúng pháp luật, thực hiện bằng được pháp chế xã hội chủ nghĩa,… Ở đâu có phạm pháp, người Công tố đều phải biết và đều hỏi đến, đưa ra pháp luật để xét xử. Ở phiên tòa, Công tố phải nói những lời đích đáng, nói những lời vang dội. Những bản luận tội phải là những văn bản có ý nghĩa chính trị. Ở phiên tòa, bản luận tội của người Công tố là trường học rất tốt, giáo dục được rất nhiều”.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960), đánh dấu sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Đến ngày 02/8/1960, ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức Hội nghị công tác sáu tháng đầu năm và học tập Luật tổ chức VKSND vừa được công bố. Tại hội nghị này, đồng chí Trường Chinh – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát biểu: “… Kiểm sát là làm thế nào bảo đảm trấn áp phản cách mạng, không để chúng lọt lưới hoành hành, bảo đảm giữ gìn trật tự an ninh, tài sản và quyền lợi chính đáng của nhân dân… có những chính sách chưa luật pháp hóa ra được, đó là một khó khăn, nhưng ta không lo, vì đã có Đảng lãnh đạo tập trung thống nhất. Nói thế không phải là không có khó khăn, vì cơ quan Kiểm sát phải dựa vào luật pháp để thực hiện nhiệm vụ của mình… Phải biết kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với tính linh hoạt trong việc chấp hành”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật là hình thức, biện pháp khẳng định chuẩn mực, giá trị của đạo đức; chuẩn mực đạo đức càng cao thì vai trò của pháp luật càng quan trọng. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là phải xây dựng nhà nước hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ; nhà nước vững mạnh phải là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – có sự kết hợp giữa vai trò của đạo đức và vai trò của pháp luật; nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm, tinh hoa văn hóa trí tuệ của nhân loại và vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam; “trong việc sửa đổi Hiến pháp, cán bộ tư pháp cũng cần góp phần sửa mình…”.
Với việc kế thừa những giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, bản Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Đồng thời, tiếp tục khẳng định: Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 107).
Để triển khai thực hiện tốt Hiến pháp, ngành Kiểm sát nhân dân cần tiếp tục nêu cao vai trò của cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hiện Luật tổ chức VKSND năm 2014; hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Với ý nghĩa đó, tại các buổi làm việc với Ban cán sự Đảng VKSND tối cao và tại các Hội nghị triển khai công tác của ngành Kiểm sát nhân dân các năm 2014 đến năm 2019, các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều lưu ý ngành Kiểm sát nhân dân: “Trong quá trình hoạt động, phải đề cao và tuân thủ các nguyên tắc tư pháp dân chủ, pháp quyền đã được Hiến pháp quy định, bảo đảm mọi quyết định của các cơ quan tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật. Đối với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát các cấp phải đề cao trách nhiệm, tiến hành kiểm sát một cách chủ động và chặt chẽ theo đúng pháp luật. Thông qua công tác kiểm sát phải thẳng thắn chỉ ra và loại trừ vi phạm pháp luật”. “Đề cao tinh thần “Thượng tôn pháp luật”, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công lý phải được thực thi, góp phần xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, văn minh… Mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân phải là tấm gương trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự là chỗ dựa của công lý”. “… Bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều bị xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, kiên quyết chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; giải quyết tốt yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời phải phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được tôn trọng, bảo vệ”.
Trong những năm tới, dự báo tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật sẽ có chiều hướng gia tăng và phức tạp hơn, tội phạm manh động và liều lĩnh hơn, nhất là các tội xâm phạm an ninh trật tự; nhiều loại tội phạm mới tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia về ma túy, buôn lậu, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao; các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh ngày càng nhiều… Công cuộc phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đặt ra nhiều yêu cầu cao hơn đối với hiệu quả hoạt động của ngành Kiểm sát. Vì lẽ đó, yêu cầu đối với ngành Kiểm sát nhân dân “Nhất định phải hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2. Kế tục xứng đáng và phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Kiểm sát nhân dân “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh sự thống nhất giữa những thuộc tính bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học, cách mạng và nhân văn. Người dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích, thì phải: Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”.
Đối với VKSND, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Với chức năng, nhiệm vụ như vậy, Viện kiểm sát phải có biện pháp cụ thể để thực hiện cho được chức năng, nhiệm vụ của mình và đó cũng là trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho ngành Kiểm sát; là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc chấp hành pháp luật của người khác, cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân phải là những người gương mẫu chấp hành pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ Kiểm sát phải: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
Khái niệm cán bộ ở đây được hiểu xét theo nghĩa rộng, một cách tổng thể bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân. Chính vì vậy, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Trong 60 năm xây dựng và phát triển, ngành Kiểm sát nhân dân coi lời dạy của Bác là những tiêu chuẩn cơ bản, nền tảng mà người cán bộ Kiểm sát cần rèn luyện, tu dưỡng để khẳng định những chuẩn mực về đạo đức công dân, đạo đức công vụ, định hình giá trị đạo đức cách mạng; là cái cần riêng có của mỗi cán bộ Kiểm sát để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân và Tổ quốc. Ở đây, cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân cần thấm nhuần tư tưởng của Người về một vấn đề rất quan trọng, đó là: Thắng lòng tà – là kẻ thù trong lòng mình. Bởi vì, “đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, “Kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.
Kế tục xứng đáng và phát huy truyền thống vẻ vang trong gần 60 năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn ở thế chủ động, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng, quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.
Theo đó, toàn Ngành đã tập trung xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ; chống mọi biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống; tăng cường trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật công vụ và phòng, chống tiêu cực. Đề cao tinh thần nêu gương trong cán bộ, đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức, hoạt động của toàn Ngành. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân phải là tấm gương trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự là chỗ dựa của công lý. Trong đó, việc nêu gương đạo đức, nói thì phải làm, nói đi đôi với làm; trong mọi biểu hiện làm gương thì người đứng đầu, cán bộ chủ chốt được yêu cầu giữ vai trò quan trọng, tiên quyết. Với những biện pháp xây dựng mang tính nguyên tắc, cụ thể là tu dưỡng đạo đức suốt đời; nêu gương đạo đức; xây đi đôi với chống. “Trong tình hình hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Người cán bộ Kiểm sát phải có cái tâm trong sáng, tinh thông nghiệp vụ, nhìn nhận, đánh giá sự việc một cách chính xác, khách quan; phải rèn luyện cho mình phương pháp làm việc khoa học, cẩn trọng, khiêm tốn. Có cẩn trọng, khiêm tốn mới đủ tỉnh táo để nhận thức chân lý đúng đắn và mới có được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân”.
Vì vậy, phải gắn công tác cán bộ với việc củng cố, xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI, Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tập trung vào các nhiệm vụ ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua đó, tạo ra khâu đột phá, tuyển chọn được cán bộ gắn với các chức danh tư pháp và chức vụ lãnh đạo quản lý vừa “hồng” vừa “chuyên”; hạn chế đến mức thấp nhất những trường hợp cán bộ cơ hội chính trị, thiếu nhiệt huyết, thụ động, ngại va chạm, chưa đáp ứng yêu cầu.
3. Tiếp tục xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân với phương châm “Đoàn kết, đổi mới – Trách nhiệm, kỷ cương – Thực chất, hiệu quả”
Có thể khẳng định, với quyết tâm cao và việc lựa chọn đúng đắn các biện pháp công tác trọng tâm, trọng điểm, trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã hoàn thành tốt các yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng, thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản được Quốc hội giao tại các Nghị quyết của Quốc hội. Những thành tích và kết quả đó đã góp phần quan trọng kiềm chế sự gia tăng tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Những cố gắng to lớn, đóng góp thành tích thiết thực này đã được Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ghi nhận, song cũng đặt ra vấn đề, nhiệm vụ quan trọng của ngành Kiểm sát nhân dân là phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng; đổi mới mạnh mẽ và toàn diện để xây dựng hệ thống Viện kiểm sát thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của Đảng, của nhân dân. “Cần đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng Ngành để có được đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên vững vàng về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm, có kỷ luật và trách nhiệm cao. Chất lượng của đội ngũ cán bộ sẽ quyết định chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Với tinh thần đó, Ban cán sự Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn ngành Kiểm sát nhân dân tiếp tục xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân với phương châm “Đoàn kết, đổi mới – Trách nhiệm, kỷ cương – Thực chất, hiệu quả”. Theo đó:
Các nghị quyết của Ban cán sự Đảng VKSND tối cao đã thể hiện cụ thể các nhiệm vụ trên cơ sở các chủ trương, phương hướng đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; ban hành và thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cơ chế về cán bộ và công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.
Chỉ thị công tác hằng năm luôn luôn đề cao trách nhiệm chính trị của ngành Kiểm sát trước Đảng, trước nhân dân. Tập trung vào các nhiệm vụ xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nâng chất đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực thực thi pháp luật. Nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; tăng cường năng lực Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Đồng thời, yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao, coi đây là yêu cầu, nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của cơ quan, đơn vị mình. Bên cạnh đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đặc biệt quan tâm, chỉ đạo các biện pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường các nguồn lực bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Khâu công tác tổ chức cán bộ tiếp tục được coi là nhiệm vụ công tác trọng tâm hàng đầu; đặt ra yêu cầu về đổi mới công tác cán bộ, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trên tất cả các khâu, lĩnh vực công tác. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị Viện kiểm sát các cấp có trách nhiệm lãnh đạo giữ gìn sự đoàn kết, trước hết là trong tập thể lãnh đạo, từ đó lan tỏa ra toàn cơ quan, đơn vị mình. Đây là giải pháp nền tảng cho các giải pháp khác trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Ngành, xây dựng cơ quan, đơn vị. Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp phải thực sự “Công bằng, trách nhiệm, gương mẫu”; cấp dưới phải “Trung thực, tận tụy, trách nhiệm” trong công việc. Cán bộ, Kiểm sát viên phải luôn giữ cho mình thật sự trong sạch, thật sự liêm chính, phải là người có bản lĩnh, dũng khí, kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, không khoan nhượng với tội phạm; “tay đã nhúng chàm” thì không thể chống lại được tội phạm, nhất là tội phạm về tham nhũng.
Chỉ đạo nghiên cứu để ban hành quy định về đánh giá, phân loại cán bộ trên cơ sở thành tích, có định lượng cụ thể của công tác chuyên môn; Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp phải chủ động xác định, lựa chọn mặt hạn chế, yếu kém của Kiểm sát viên để tổ chức tập huấn, bồi dưỡng, phù hợp với đặc điểm, tình hình của đơn vị.
Triển khai kế hoạch sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy làm việc theo hướng tinh gọn đầu mối, bảo đảm đúng quy định của Đảng và pháp luật, phù hợp với thực tế, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Thực hiện việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức gắn với thực hiện Đề án vị trí việc làm và Đề án tổ chức biên chế của Ngành. Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các cấp, bảo đảm nguồn cán bộ kế cận chất lượng, chú trọng đào tạo đội ngũ lãnh đạo trẻ; đổi mới công tác thi tuyển dụng công chức và thi tuyển chọn các chức danh tư pháp. Thực hiện biện pháp luân chuyển, điều động và biệt phái Kiểm sát viên mới được bổ nhiệm chức danh tư pháp về cơ sở; chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Quán triệt nguyên tắc đổi mới nhưng phải bảo đảm sự đoàn kết, kế thừa những kết quả tốt đẹp, ổn định để phát triển theo chỉ đạo của Ban cán sự Đảng và Lãnh đạo VKSND tối cao.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương của Ngành và yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp tự thanh tra, kiểm tra nhằm kịp thời khắc phục sai phạm, thiếu sót trong đơn vị. Cần coi đây là biện pháp chủ động để phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái, tiêu cực, tham nhũng trong nội bộ; cần có cách thức và phương pháp kiểm tra phù hợp, hiệu quả tránh ảnh hưởng nhiều đến công tác đơn vị bị thanh tra, kiểm tra; biết lắng nghe ý kiến giải trình của đơn vị bị thanh tra, kiểm tra để có đánh giá, kết luận hợp lý, thuyết phục; tăng cường kiểm tra đột xuất và theo chuyên đề đối với đơn vị có nhiều hạn chế; thực hiện việc kiểm tra chéo giữa các đơn vị trong cùng cấp kiểm sát; thực hiện nghiêm các quy chế, quy định của Ngành./.
Theo Vksndtc.gov.vn
1. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ tư pháp và cơ quan tư pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” đối với những người làm công tác tư pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại Hội nghị tư pháp toàn quốc lần thứ tư được tổ chức vào tháng 02 năm 1948. Do hoàn cảnh đất nước đang kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy không thể đến dự nhưng Người vẫn hết sức quan tâm, gửi Thư động viên, nhắc nhở toàn ngành Tư pháp tiếp tục phải có những đóng góp to lớn trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến. Hội nghị đã thảo luận và quyết định 09 nhóm vấn đề quan trọng của công tác tư pháp trong thời kỳ kháng chiến, trong đó có vấn đề về công tố”. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh về niềm tự hào nghề nghiệp, đồng thời yêu cầu cần tiếp tục rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,… Người viết: “Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Phụng công, thủ pháp là chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật (làm việc công phải giữ đúng pháp luật); phải nhận thức rõ chúng ta làm cách mạng là để chống lại tình trạng bất công, bất bình đẳng, vì vậy, phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào. Về chí công vô tư, theo Bác: Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Tại các Hội nghị học tập của cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1950 và Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1957, Người nói: “… các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”; “… Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta, đó là nhiệm vụ tích cực. Đồng thời, có một nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta, phá hoại lợi ích của nhân dân”.
Tiếp thu tư tưởng của Người, tại Hội nghị ngành Công tố (ngày 10/02/1960), đồng chí Phạm Văn Đồng – Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhấn mạnh: “… Công tác công tố phải phục tùng và phục vụ đường lối chung. Chính trị đòi hỏi cái gì là công tố phải làm đúng cái đó, không thể thoát ly. Công tố phải gắn liền với chính trị, tách rời chính trị thì không biết làm gì… Các đồng chí vì trách nhiệm bản thân của mình phải làm đúng pháp luật và đòi hỏi những người khác cũng phải làm đúng pháp luật, thực hiện bằng được pháp chế xã hội chủ nghĩa,… Ở đâu có phạm pháp, người Công tố đều phải biết và đều hỏi đến, đưa ra pháp luật để xét xử. Ở phiên tòa, Công tố phải nói những lời đích đáng, nói những lời vang dội. Những bản luận tội phải là những văn bản có ý nghĩa chính trị. Ở phiên tòa, bản luận tội của người Công tố là trường học rất tốt, giáo dục được rất nhiều”.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960), đánh dấu sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Đến ngày 02/8/1960, ngành Kiểm sát nhân dân tổ chức Hội nghị công tác sáu tháng đầu năm và học tập Luật tổ chức VKSND vừa được công bố. Tại hội nghị này, đồng chí Trường Chinh – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phát biểu: “… Kiểm sát là làm thế nào bảo đảm trấn áp phản cách mạng, không để chúng lọt lưới hoành hành, bảo đảm giữ gìn trật tự an ninh, tài sản và quyền lợi chính đáng của nhân dân… có những chính sách chưa luật pháp hóa ra được, đó là một khó khăn, nhưng ta không lo, vì đã có Đảng lãnh đạo tập trung thống nhất. Nói thế không phải là không có khó khăn, vì cơ quan Kiểm sát phải dựa vào luật pháp để thực hiện nhiệm vụ của mình… Phải biết kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với tính linh hoạt trong việc chấp hành”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật là hình thức, biện pháp khẳng định chuẩn mực, giá trị của đạo đức; chuẩn mực đạo đức càng cao thì vai trò của pháp luật càng quan trọng. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước là phải xây dựng nhà nước hợp hiến, có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ; nhà nước vững mạnh phải là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa – có sự kết hợp giữa vai trò của đạo đức và vai trò của pháp luật; nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin với việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm, tinh hoa văn hóa trí tuệ của nhân loại và vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam; “trong việc sửa đổi Hiến pháp, cán bộ tư pháp cũng cần góp phần sửa mình…”.
Với việc kế thừa những giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, bản Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Đồng thời, tiếp tục khẳng định: Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Điều 107).
Để triển khai thực hiện tốt Hiến pháp, ngành Kiểm sát nhân dân cần tiếp tục nêu cao vai trò của cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hiện Luật tổ chức VKSND năm 2014; hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Với ý nghĩa đó, tại các buổi làm việc với Ban cán sự Đảng VKSND tối cao và tại các Hội nghị triển khai công tác của ngành Kiểm sát nhân dân các năm 2014 đến năm 2019, các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội đều lưu ý ngành Kiểm sát nhân dân: “Trong quá trình hoạt động, phải đề cao và tuân thủ các nguyên tắc tư pháp dân chủ, pháp quyền đã được Hiến pháp quy định, bảo đảm mọi quyết định của các cơ quan tố tụng có căn cứ và đúng pháp luật. Đối với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát các cấp phải đề cao trách nhiệm, tiến hành kiểm sát một cách chủ động và chặt chẽ theo đúng pháp luật. Thông qua công tác kiểm sát phải thẳng thắn chỉ ra và loại trừ vi phạm pháp luật”. “Đề cao tinh thần “Thượng tôn pháp luật”, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công lý phải được thực thi, góp phần xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương, văn minh… Mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân phải là tấm gương trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực sự là chỗ dựa của công lý”. “… Bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều bị xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, kiên quyết chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; giải quyết tốt yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời phải phát hiện, xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải được tôn trọng, bảo vệ”.
Trong những năm tới, dự báo tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật sẽ có chiều hướng gia tăng và phức tạp hơn, tội phạm manh động và liều lĩnh hơn, nhất là các tội xâm phạm an ninh trật tự; nhiều loại tội phạm mới tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia về ma túy, buôn lậu, mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao; các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh ngày càng nhiều… Công cuộc phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đặt ra nhiều yêu cầu cao hơn đối với hiệu quả hoạt động của ngành Kiểm sát. Vì lẽ đó, yêu cầu đối với ngành Kiểm sát nhân dân “Nhất định phải hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
2. Kế tục xứng đáng và phát huy truyền thống vẻ vang của ngành Kiểm sát nhân dân “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”
Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh sự thống nhất giữa những thuộc tính bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học, cách mạng và nhân văn. Người dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích, thì phải: Cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”.
Đối với VKSND, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Với chức năng, nhiệm vụ như vậy, Viện kiểm sát phải có biện pháp cụ thể để thực hiện cho được chức năng, nhiệm vụ của mình và đó cũng là trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho ngành Kiểm sát; là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc chấp hành pháp luật của người khác, cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân phải là những người gương mẫu chấp hành pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ Kiểm sát phải: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
Khái niệm cán bộ ở đây được hiểu xét theo nghĩa rộng, một cách tổng thể bao gồm cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân. Chính vì vậy, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Trong 60 năm xây dựng và phát triển, ngành Kiểm sát nhân dân coi lời dạy của Bác là những tiêu chuẩn cơ bản, nền tảng mà người cán bộ Kiểm sát cần rèn luyện, tu dưỡng để khẳng định những chuẩn mực về đạo đức công dân, đạo đức công vụ, định hình giá trị đạo đức cách mạng; là cái cần riêng có của mỗi cán bộ Kiểm sát để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân và Tổ quốc. Ở đây, cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân cần thấm nhuần tư tưởng của Người về một vấn đề rất quan trọng, đó là: Thắng lòng tà – là kẻ thù trong lòng mình. Bởi vì, “đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”, “Kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.
Kế tục xứng đáng và phát huy truyền thống vẻ vang trong gần 60 năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân luôn ở thế chủ động, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ, góp phần xứng đáng, quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ thắng lợi sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.
Theo đó, toàn Ngành đã tập trung xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Kiểm sát viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thông nghiệp vụ; chống mọi biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống; tăng cường trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật công vụ và phòng, chống tiêu cực. Đề cao tinh thần nêu gương trong cán bộ, đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức, hoạt động của toàn Ngành. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân phải là tấm gương trong v