Giới hạn xét xử trong các Bộ luật Tố tụng hình sự trước năm 2015
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật TTHS ở nước ta đều không đưa ra khái niệm “giới hạn xét xử” mà chỉ liệt kê những việc mà Tòa án được làm trong từng giai đoạn tố tụng và được thể hiện dưới các thuật ngữ như “giới hạn xét xử sơ thẩm”, “phạm vi xét xử phúc thẩm”, “phạm vi giám đốc thẩm”.
Tác giả cho rằng, pháp luật TTHS quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát (VKS), Tòa án trong TTHS; các nguyên tắc cơ bản của TTHS; mối quan hệ giữa các giai đoạn trong TTHS; mối quan hệ giữa phạm vi xét xử sơ thẩm và giới hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; vai trò của Tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; nhu cầu cần giải quyết những ý kiến chưa thống nhất giữa VKS và Tòa án; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
Ở góc độ luật thực định, trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, vấn đề giới hạn xét xử được quy định tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, theo đó, khi giải quyết các vấn đề về tội danh và điều luật áp dụng mà Tòa án có ý kiến khác với ý kiến của VKS thì bắt buộc Tòa án phải họp trù bị với VKS cùng cấp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý. Tại phiên họp, nếu VKS nhất trí với Tòa án thì trả hồ sơ điều tra bổ sung để thay đổi cáo trạng. Trường hợp Tòa án không nhất trí với VKS về thay đổi cáo trạng thì Tòa án vẫn phải đưa vụ án ra xét xử nhưng trong quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án phải ghi tội danh mà VKS truy tố và tội danh mà bị cáo có thể bị xét xử. Việc đưa vụ án xét xử mà giữa Tòa án và VKS không thống nhất về tội danh thì giao cho Hội đồng xét xử căn cứ vào tình hình thực tế tại phiên tòa, để quyết định. Như vậy, Thông tư này đã xác định vai trò độc lập xét xử của Tòa án cho phép Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa để quyết định tội danh của bị cáo mà không phụ thuộc vào cáo trạng truy tố của VKS.
Sau thời gian dài thực hiện Thông tư nói trên thì lần đầu tiên vấn đề giới hạn xét xử được quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 1988 như sau: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, Tòa án không xét xử những người những hành vi chưa được VKS truy tố và không được xử tội khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy Điều 170 không hạn chế Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn VKS đã truy tố, nhưng nếu Tòa án muốn xét xử khung hình phạt nặng hơn thì trước khi mở phiên toà phải trao đổi với VKS theo hướng dẫn tại mục II Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 08/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đồng thời tuân thủ thực hiện các quy định về thẩm quyền mà Thông tư đã hướng dẫn. Quy định này đã làm hạn chế nguyên tắc xét xử độc lập và xét xử đúng người, đúng tội, vì vậy, đã có nhiều ý kiến kiến nghị từ phía Tòa án các cấp đề nghị sửa đổi.
Trên cơ sở tiếp thu kiến nghị và tổng kết thực tiễn, đến BLTTHS năm 2003 thì Điều 170 BLTHS năm 1988 được sửa thành Điều 196 có bổ sung: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Với quy định bổ sung trên cho thấy giới hạn xét xử đã được mở rộng hơn, tuy nhiên, Tòa án cũng chỉ xét xử theo tội danh mà VKS truy tố và chỉ được phép xử tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố. Đây là hạn chế của điều luật làm cho việc định tội đôi khi không đúng với hành vi của bị cáo, làm giảm hiệu lực của việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ví dụ như cùng hành vi dùng hung khí đánh người gây thương tích, VKS truy tố Tội cố ý gây thương tích, nhưng trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ kết Tội giết người, nếu vụ án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng VKS không thay đổi tội danh thì Hội đồng xét xử vẫn phải xử bị cáo theo Tội cố ý gây thương tích, rồi thực hiện việc kiến nghị lên cấp trên.
Vấn đề này cho đến BLTTHS năm 2015 (Điều 298) mới được khắc phục với những thay đổi nhất định gần giống như quy định trước đây khi chưa có BLTTHS năm 1988.
Giới hạn xét xử trong BLTTHS năm 2015
Điều 298 BLTTHS năm 2015 quy định như sau:
“1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra
xét xử.
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.
So với Điều 196 BLTTHS năm 2003 thì Điều 298 BLTTHS năm 2015 bổ sung khoản 3. Quy định mới đã mở rộng phạm vi xét xử cho phép Tòa án được xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố. Tuy nhiên, để Tòa án xét xử về tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS đã truy tố thì Tòa án phải trả hồ sơ để VKS truy tố lại, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn. Với quy định mới nêu trên, vấn đề đặt ra là Tòa án sơ thẩm có quyền thay đổi nội dung truy tố của VKS hay không?
Quan điểm thứ nhất, phủ nhận sự cần thiết của chế định giới hạn xét xử hoặc nếu quy định thì cần phải thay đổi nội dung của giới hạn xét xử theo hướng thừa nhận Tòa án có quyền trên cơ sở xem xét, điều tra các chứng cứ tại phiên tòa quyết định tội danh của bị cáo không phụ thuộc vào tội danh mà VKS truy tố kể cả tội danh nặng hơn (làm xấu tình trạng bị cáo). Có tác giả cho rằng, quy định của Điều 170 BLTTHS năm 1988 và Điều 196 BLTTHS năm 2003 chưa thể hiện được việc đề cao kết quả tranh tụng tại phiên toà như yêu cầu đã được xác định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị và cũng không phù hợp với nguyên tắc hiến định: “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nói chung và trong TTHS nói riêng và cũng không phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội; từ đó có thể dẫn đến trường hợp vụ án không được xem xét một cách khách quan, toàn diện vì khi xét xử, Hội đồng xét xử chỉ tập trung kiểm tra tài liệu, chứng cứ xem bị cáo có phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố hay không” (1). Có tác giả còn cho rằng, chế định này không phù hợp với nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” đã được quy định trong pháp luật TTHS và bất cập trong thực tiễn áp dụng “bởi có nhiều trường hợp VKS truy tố tội danh chưa phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện (tội nhẹ hơn) nhưng Hội đồng xét xử cũng không được phép tuyên bị cáo đã phạm tội danh nặng hơn tội danh cáo trạng của VKS truy tố. Điều đó đã dẫn đến tình trạng có trường hợp Hội đồng xét xử đã “buộc phải kiến nghị trong bản án đề nghị cấp trên kháng nghị hủy đối với bản án mình đã xử”. Quan điểm này đề xuất VKS chỉ truy tố bị cáo theo hành vi còn tội danh do Tòa quyết định… Tội danh mà VKS truy tố đối với bị cáo chỉ là một căn cứ để Toà án đưa vụ án ra xét xử. Quy định như vậy không biến Toà án thành cơ quan buộc tội, lạm quyền, bởi dù có được quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố thì cũng phải nằm trong nhóm tội danh phù hợp với hành vi mà bị cáo đã thực hiện” (2).
Quan điểm thứ hai cho rằng, bản chất của chế định giới hạn xét xử sơ thẩm là mối quan hệ pháp lý giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong TTHS. Mối quan hệ giữa hai chức năng này không thể không ảnh hưởng đến chức năng bào chữa vì các chức năng cơ bản của TTHS tồn tại không tách rời nhau. Cơ sở lý luận của mối quan hệ này trước hết là lý luận về các chức năng cơ bản của TTHS, theo đó, các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử độc lập với nhau, quan hệ mật thiết, biện chứng với nhau do các chủ thể khác nhau thực hiện. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thái Phúc thì mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng chức năng của mình. “Buộc tội là chức năng của VKS. Tòa án không buộc tội, Tòa án chỉ xét xử và xét xử trong phạm vi nội dung buộc tội của Viện kiểm sát. Nếu VKS để lọt tội, lọt kẻ phạm tội thì đó là trách nhiệm của VKS trước Nhà nước, là vấn đề của VKS chứ không phải vấn đề của Tòa án. Giới hạn xét xử do luật định như là vòng “kim cô” của luật đối với chức năng xét xử của Tòa án và nhờ vậy mà Tòa án luôn luôn là Tòa án – tức là cơ quan thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là cơ quan buộc tội bị cáo. Đối với VKS – cơ quan có chức năng nhân danh nhà nước truy tố bị cáo ra Tòa mà luật còn không cho phép cơ quan này thay đổi nội dung quyết định truy tố tại phiên tòa theo hướng làm xấu tình trạng của bị cáo, VKS chỉ có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn nhưng luật lại cho phép Tòa án – cơ quan thực hiện chức năng xét xử – có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn trong cùng một điều luật, tức là làm xấu tình trạng bị cáo” (3).
Về mặt lý luận cả hai quan điểm đều có cơ sở nhằm đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử. Tuy nhiên, ở góc độ thực hiện quyền bào chữa thì trong trường hợp Tòa án đưa ra xét xử theo tội danh khác nặng hơn thì sẽ tồn tại song song hai nội dung buộc tội: Buộc tội chính thức nhân danh nhà nước của VKS – cơ quan thực hiện chức năng công tố theo quy định của Hiến pháp và buộc tội mới nặng hơn do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đưa ra trong quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vậy buộc tội nào có giá trị pháp lý hay cả hai buộc tội đều có giá trị pháp lý như nhau? Nếu cho rằng buộc tội mới do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đưa ra là buộc tội chính thức thì Tòa án lúc này đã tự biến mình thành cơ quan buộc tội, vô hiệu hóa buộc tội của cơ quan có chức năng công tố theo Hiến pháp và Tòa án lại xét xử bị cáo theo chính buộc tội của mình (vừa buộc tội vừa xét xử). Bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình thế nào khi tồn tại song song hai nội dung buộc tội khác nhau? Cơ sở lý luận thứ hai của chế định giới hạn xét xử sơ thẩm chính là yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa – quyền hiến định của bị cáo. Bào chữa là quyền tố tụng quan trọng của bị cáo và tương ứng với quyền tố tụng này là nghĩa vụ tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Tòa án phải tôn trọng, tạo mọi điều kiện để bị cáo thực hiện quyền tố tụng của mình một cách tốt nhất, không được vi phạm.
Theo tác giả, vấn đề mấu chốt là phải giải quyết mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử, đồng thời, phải có giải pháp bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đó là quyền hiến định. Về mặt lý luận thì Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, khi thực hiện chức năng xét xử, phải có trách nhiệm làm sáng tỏ tất cả các tình tiết của vụ án (bao gồm cả các tình tiết buộc tội, các tình tiết gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo) nhưng không phải để buộc tội hay bào chữa đối với bị cáo mà nhằm thực hiện chức năng xét xử – xác định sự thật khách quan và ra quyết định đúng đắn về vụ án. Tòa án phải tôn trọng và tạo mọi điều kiện để bị cáo thực hiện quyền tố tụng của mình một cách tốt nhất, không được vi phạm. Vì vậy, để giải quyết vấn đề nêu trên, theo tác giả thì Tòa án chỉ tập trung xét xử hành vi mà bị cáo đã thực hiện và VKS đã truy tố, không phụ thuộc vào tội danh mà VKS đề nghị. Việc xác định bị cáo phạm tội gì, hình phạt như thế nào là do Tòa án quyết định và phải nêu rõ trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Để bảo đảm quyền bào chữa và thời gian chuẩn bị bào chữa tốt nhất theo tác giả thì trong quá trình chuẩn bị xét xử, nếu xét thấy phải xét xử tội danh khác nặng hơn thì Thẩm phán nên tổ chức phiên họp “trù bị” hoặc “phiên tòa sơ bộ” với sự có mặt của Kiểm sát viên, của người bào chữa và những người tham gia tụng khác nhằm kiểm tra lại toàn bộ hành vi và hậu quả mà bị cáo đã thực hiện, kiểm tra lại toàn bộ chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, điều tra bổ sung theo quyết định trả hồ sơ của Tòa án… Trên cơ sở đó, Thẩm phán quyết định đưa ra xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật nào, có thể giống hoặc khác tội danh mà VKS đề nghị truy tố. Phiên họp “trù bị” hoặc “phiên tòa sơ bộ” sẽ góp phần khắc phục giải quyết được bất cập về giới hạn xét xử theo quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015 khi phải xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố, qua phiên họp “trù bị” hoặc “phiên tòa sơ bộ” bị cáo, người bào chữa biết được quan điểm của Toà án và có ý kiến về tội danh mà Toà án sắp đưa ra xét xử từ đó có đầy đủ thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa. Đồng thời góp phần đảm bảo cho việc xét xử đúng người đúng tội, kéo giảm tỷ lệ án huỷ, tránh tình trạng sau xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo kêu oan, đảm bảo công bằng và chính xác khi xét xử.
Theo Kiemsat.vn