Công tác đặc xá không chỉ những người thực hiện công tác tư pháp mà tất cả những người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn (gọi là phạm nhân) đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam, Trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện đêu phải biết về điều kiện đặc xá năm 2015 theo tinh thần quyết định của Chủ tịch nước và Hướng dẫn số 91/HD-HĐTVĐX ngày 15 tháng 07 năm 2015 của Hội đồng tư vấn đặc xá về việc triển khai thực hiện Quyết định số 1366/2015/QĐ-CTN, cụ thể:
1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần ba thời gian đối với án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là mười bốn năm đối với án phạt tù chung thân, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;
b. Chấp hành tốt nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội;
c. Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, tiền truy thu, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác, trừ những phạm nhân không bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia định không còn khả năng thực hiện;
2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn đã chấp hành ít nhất là một phần tư thời gian và người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đã chấp hành ít nhất là mười hai năm, nếu có đủ các điều kiện khác quy định tại điểm b, c khoản 1 điều này thì được đề nghị đặc xá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a. Đã lập công trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;
b. Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân, Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được tặng thưởng một trong các loại Huân chương, Huy chương kháng chiến, người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;
c, Khi phạm tội là người chưa thành niên;
d. Là người từ 70 tuổi trở lên;
đ. Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau, không tự phục vụ bản thân được, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;
e. Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cơ trú;
g. Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang với mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ;
III. Các trường hợp không đề nghị đặc xá:
Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 3 của Quyết định này không được đề nghị đặc xá nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Bản án hoặc Quyết định của Tòa án đối với người đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
3. Trước đó đã được đặc xá;
4. Có từ hai tiền án trở lên;
5. Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia;
6. Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên sau năm đối với người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều e; trên tám năm đối với người được quy định tại khoản 2 Điều 3 của Quyết định này;
7. Phạm các tội về ma tuý bị phạt tù đến bảy năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên một năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù từ trên bảy năm đến mười lăm năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù con lại trên hai năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên mười lăm năm, tù chung thân mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên ba năm;
8. Có căn cứ khẳng định đã sử dụng trái phép các chất ma túy;
9. Đang chấp hành án phạt tù do phạm hai tội: Giết người và cướp tài sản; Giết người và cướp giật tài sản; Giết người và trộm cắp tài sản; Giết người và hiếp dâm; Giết người và hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản và hiếp dâm; cướp tài sản và hiếp dâm trẻ em; trộm cắp tài sản và cướp tài sản; cướp tài sản và cướp giật tài sản; trộm cắp tài sản và hiếp dâm; trộm cắp tài sản và hiếp dâm trẻ em;
10. Đang chấp hành án phạt tù do phạm ba tội trở lên, kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt;
11. Phạm tội giết người có tổ chức; hiếp dâm có tính chất loạn luân; hiếp dâm trẻ em có tính chất loạn luân; cướp tài sản có sử dụng vũ khí; cướp tài sản; cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; cướp tài sản nhiều lần, cướp giật tài sản nhiều lần, trộm cắp tài sản nhiều lần (từ hai lần trở lên);
12. Có một tiền án hoặc đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục hoặc trường giáo dưỡng mà bị kết án phạt tù về một trong các tội sau đây: về ma túy; giết người; hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; trộm cắp tài sản; cưỡng đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; chông người thi hành công vụ; mua bán phụ nữ hoặc mua bán người; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; gây rối trật tự công cộng; tiêu thu tài sản do người khác phạm tội mà có; cố ý gây thương tích có tổ chức hoặc có tính chất côn đồ hoặc phạm tội nhiều lần đối với một hoặc một lần đối với nhiều người.
Nguyễn Thị Hải – VKS tỉnh Yên Bái