Thực tế, trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại nhiều nơi tiêu thụ tài sản phạm pháp, sẵn sàng mua lại những tài sản do các đối tượng phạm tội mang đến, bởi thực tế rất nhiều tài sản do các đối tượng trộm cắp, cướp giật… đã được tiêu thụ chót lọt. Những điểm tiêu thụ tài sản phạm pháp này thường được ngụy trang bằng hình thức kinh doanh hợp pháp, như: Các cửa hàng cầm đồ, sửa chữa, mua bán xe máy, điện thoại cũ… nhằm dễ dàng che đậy cho những hành vi tiêu thụ tài sản phạm, chính vì vậy đã phần nào tạo điều kiện thúc đẩy cho các đối tượng trộm cắp, cướp giật… phạm tội, vì biết là có thể dễ dàng tiêu thụ những tài sản này. Có thể nói, đồng hành cùng các tội phạm trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản là các vụ việc tiêu thụ tài sản phạm pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ phát hiện, điều tra ra các tội phạm “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là rất thấp, không đáng kể so với tình hình gia tăng của tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể như tại địa bàn quận Ba Đình, năm 2017, Cơ quan điều tra khởi tố khởi tố 58 vụ/46 bị can về tội xâm phạm sở hữu nhưng không khởi tố vụ án, bị can nào về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; năm 2018, khởi tố 86 vụ/65 bị can về tội xâm phạm sở hữu, nhưng chỉ khởi tố 01 vụ án, 01 bị can về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; năm 2019, khởi tố 87 vụ/73 bị can về tội xâm phạm sở hữu, cũng chỉ khởi tố 01 vụ án, 01 bị can về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Như vậy, trong 3 năm tính riêng trên địa bàn quận Ba Đình đã có hàng trăm vụ tiêu thụ tài sản phạm pháp chót lọt mà không bị phát hiện, xử lý nếu tính rộng ra trên địa bàn thành phố Hà Nội thì có thể ước tính đến hàng nghìn vụ tiêu thụ tài sản phạm pháp không bị phát hiện xử lý.
Nguyên nhân của việc không điều tra, xử lý được đối với loại tội phạm này một phần do phương pháp, thủ đoạn của các đối tượng tội phạm ngày càng tinh vi, một phần do chính quy định pháp luật của ta chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến khó khăn, vướng mắc đối với quy định về việc đánh giá ý thức chủ quan của tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tài sản phạm pháp mà bài viết đề cập là những tài sản theo quy định pháp luật phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu, như: Giấy đăng ký xe máy, ô tô. Cụ thể:
Điều 323 BLHS năm 2015 quy định: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Theo nội dung quy định của Điều luật này, người phạm tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì phải “biết rõ” tài sản mà họ tiêu thụ là tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, nhận thức như nào là “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có thì hiện nay có hai quan điểm như sau:
* Quan điểm thứ nhất: Cụm từ “biết rõ” là thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Ý thức chủ quan này phải được chính người phạm tội thừa nhận bằng lời khai. Nếu đối tượng khai không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có thì cho dù có các tài liệu khác như: Chính lời khai của đối tượng bán hoặc lời khai của người liên quan; thu được tài sản tại nhà đối tượng tiêu thụ; tài liệu thể hiện đối tượng mua tài sản với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thật… thì vẫn không xử lý hình sự được. Quan điểm này đưa ra căn cứ dựa trên cơ sở cấu thành cơ bản của tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 BLHS năm 2015, trong đó nội dung điều luật đã ghi cụ thể ý thức chủ quan của người phạm tội phải là “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có, nếu người phạm tội không “biết rõ” thì bất cứ lý do gì cũng không đủ yếu tố cấu thành tội này.
* Quan điểm thứ hai: Dấu hiệu “biết rõ” cần được hiểu một cách toàn diện, không cứng nhắc và cần được đánh giá trên cơ sở “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”. Quan điểm này cho rằng các cơ quan tố tụng không được phụ thuộc vào lời khai của đối tượng có nhận tội hay không, nếu phụ thuộc vào lời khai của đối tượng thì sẽ không thể xử lý hình sự được đối với loại tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có này, dẫn đến không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
Tác giả đồng nhất với quan điểm thứ hai bởi các lẽ sau:
* Thứ nhất: Về quy định pháp luật: Theo khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, VKSND tối cao, TAND tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về tội “Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Rửa tiền” quy định:
Điều 1. Giải thích từ ngữ quy định tại Điều 250, Điều 251 BLHS năm 1999:
“2. Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, quy định trên đã giải thích khái niệm “biết rõ” trong tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là “có căn cứ chứng minh”, chứ không nêu là đối tượng phải “khai nhận” hoặc nhận tội mới là “biết rõ”. Ý nghĩa của cụm từ “có căn cứ chứng minh” ở đây rất rộng, bao gồm các tài liệu, chứng cứ vật chất mà Cơ quan điều tra thu thập được, chứ không phải là duy nhất chứng cứ về chủ quan (lời khai nhận) của tội phạm. Nói cách khác, “có căn cứ chứng minh” được hiểu là phải đánh giá một cách tổng quát, toàn diện các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết có trong hồ sơ để kết luận đối tượng có “biết rõ” hay không, chứ không được phụ thuộc vào duy nhất lời khai của đối tượng. Việc phụ thuộc vào lời khai của đối tượng để buộc tội là không chắc chắn, bởi có thể đối tượng đầu tiên khai nhận, sau phản cung thì các cơ quan tố tụng sẽ không còn căn cứ để buộc tội. Chính vì vậy, cần hiểu cụm từ “biết rõ” trong tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có một cách toàn diện hơn và không đánh giá vào việc đối tượng trực tiếp khai nhận mới là “biết rõ”.
Ngoài ra, kế thừa Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã giải thích thế nào là “có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội” tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS năm 2015 về tội rửa tiền như sau:
“4. Biết hay có cơ sở để biết là do người khác phạm tội mà có là một trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: người phạm tội được người thực hiện hành vi phạm tội nguồn cho biết là tiền, tài sản do họ phạm tội mà có);
b) Qua các phương tiện thông tin đại chúng, người phạm tội biết được người khác thực hiện hành vi phạm tội nguồn (ví dụ: hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm nguồn đã được báo, đài phát thanh, truyền hình đưa tin);
c) Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: biết chồng là nhân viên của cơ quan nhà nước có mức lương là 08 triệu đồng/tháng và không có nguồn thu nhập khác nhưng A vẫn nhận của chồng số tiền 10 tỷ đồng để góp vốn vào doanh nghiệp mà không hỏi rõ về nguồn tiền);
d) Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có (ví dụ: A mua xe ô tô của B không có giấy tờ với giá bằng một phần mười trị giá của chiếc xe đó)”
Qua quy định trên cho thấy, mặc dù quy định này hướng dẫn cho tội rửa tiền theo Điều 324 BLHS năm 2015, tuy nhiên đều hướng dẫn về cách nhận biết, đánh giá thế nào là trường hợp“biết hay có cơ sở để biết tài sản là do người khác phạm tội mà có” nên có thể vận dụng đối với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Nghiên cứu hướng dẫn tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP thì chỉ duy nhất nội dung trong điểm a là đề cập đến vấn đề đối tượng tiêu thụ trực tiếp biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có. Các điểm còn lại (gồm điểm b, c, d) thì đưa ra các trường hợp buộc đối tượng phải tự nhận thức được đó là tài sản phạm pháp, như: Biết tài sản do phạm tội mà có qua phương tiện thông tin đại chúng (điểm b); bằng nhận thức thông thường có thể biết được nguồn gốc tiền của người thân (điểm c); theo quy định của pháp luật thì buộc phải biết nguồn gốc tài sản vì đây là tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền (điểm d).
Như vậy, về mặt căn cứ pháp luật đã có văn bản hướng dẫn việc đánh giá thế nào là trường hợp “biết rõ” hoặc “biết” hoặc “có cơ sở để biết” tài sản là do người khác phạm tội mà có. Trong đó, đã chỉ ra nhiều căn cứ để đánh giá ý thức chủ quan của người phạm tội và không bắt buộc người phạm tội phải thừa nhận mới đủ cơ sở để kết tội.
* Thứ hai: Mặc dù chưa có văn bản nào quy định nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan”, nhưng thực tiễn các cơ quan tố tụng đã vận dụng nguyên tắc này khá phổ biến trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là trong các vụ án bị can không nhận tội, hoặc bị can được sự “tư vấn” để biết cách chối tội. Khi đối phó với những đối tượng ngoan cố, không nhận tội này thì các cơ quan tố tụng cần phải có biện pháp, cách thức để đấu tranh. Biện pháp thường được cơ quan tố tụng áp dụng đó chính là việc đánh giá, sử dụng và khai thác các tài liệu, chứng cứ liên quan trong hồ sơ để chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng, mà không phụ thuộc việc đối tượng có thừa nhận hay không thừa nhận hành vi phạm tội của mình – Đây chính là hình thức biểu hiện của nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” đang diễn ra trong thực tiễn hoạt động tố tụng hiện nay.
Liên hệ với tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” cũng vậy, cơ bản đối tượng sẽ không chịu thừa nhận việc mình biết tài sản đó là tài sản do trộm cắp, cướp giật mà có. Ví dụ: A nhiều lần mua xe máy của B (xe do B trộm cắp được) với giá rẻ và không có giấy tờ, nhưng A ngoan cố không thừa nhận việc biết xe đó là xe trộm cắp. Trong trường hợp này, nếu chúng ta chỉ phụ thuộc vào lời khai của A thì sẽ không xử lý được vì A kiên quyết khai không “biết rõ” tài sản của B là do trộm cắp mà có. Vậy, nếu đối tượng không nhận tội thì các cơ quan tố tụng sẽ không có cách nào để xử lý hành vi này? Hay không có cách nào để chứng minh một người “biết rõ” tài sản do người khác phạm tội mà có chỉ vì người này không thừa nhận gì? Không lẽ các cơ quan tố tụng chỉ dùng duy nhất một lời khai nhận tội của đối tượng để buộc tội còn không quan tâm đến các tài liệu, chứng cứ khác? Theo quan điểm chúng tôi, có thể áp dụng nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” trong tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bởi những căn cứ như sau:
– Một là: Căn cứ quy định của pháp luật tại điểm c, d khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP đã thể hiện tinh thần của nguyên tắc hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan ở chỗ: “c. Bằng nhận thức thông thường, người phạm tội có thể biết được tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có”; và “d. Theo quy định của pháp luật, người phạm tội buộc phải biết nguồn gốc tiền, tài sản do người khác phạm tội mà có”. Như vậy, với quy định này thì không cần đối tượng phải tự khai ra là mình biết rõ tài sản phạm pháp, mà chỉ cần chứng minh các tình tiết liên quan để buộc đối tượng phải tự nhận biết được đó là tài sản do phạm tội mà có.
– Hai là: Căn cứ vào các tài liệu, tình tiết liên quan để khai thác, đánh giá ý thức chủ quan của đối tượng, buộc đối tượng phải nhận thức được hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, trong vụ án tiêu thụ xe máy trộm cắp, cần chứng minh những vấn đề sau để đánh giá ý thức chủ quan của đối tượng tiêu thụ, buộc đối tượng tiêu thụ phải biết đó là tài sản do phạm tội mà có, đó là: Tình trạng khi giao xe thì ổ khóa xe có bị phá; khi giao xe máy đối tượng bán không đưa chìa khóa xe; xe không có biểm kiểm soát (có nhiều trường hợp đối tượng sau khi trộm cắp đã tháo biển xe để tránh bị phát hiện); mua xe máy không giấy tờ (trong khi ai cũng biết xe máy là tài sản phải có Giấy đăng ký xe); giá bán thấp hơn hẳn so với giá thực tế (có thể so sánh qua kết luận định giá); số lần đến bán xe nhiều hay ít, tần suất liên tục hay thỉnh thoảng (để xác định đối tượng lý do gì mà có nhiều xe máy cũ không giấy tờ như thế); thời gian đối tượng đến bán là ban đêm… Khi có đủ căn cứ để xác định: Một đối tượng trong một thời gian ngắn mà liên tục đến bán xe máy cũ với giá rẻ, không giấy tờ, không biển kiểm soát, xe trong tình trạng bị phá ổ khóa, khi bán xe không có chìa khóa… thì đây sẽ là các chứng cứ vật chất để chứng minh ý thức chủ quan của đối tượng tiêu thụ tài sản, nên không nhất thiết phải cần đến lời khai nhận của đối tượng nữa mới là đủ cơ sở để buộc tội. Việc đối tượng khai không nhận thức được là tài sản phạm pháp chỉ là không thành khẩn, quanh co chối tội và dùng các tài liệu trên để buộc đối tượng phải chịu trách nhiệm về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
* Thứ ba: Khi xây dựng điều luật, các nhà làm luật đã đều đặt mục tiêu hiệu quả của pháp luật phải đạt được, tức là quy phạm pháp luật đã thông qua thì phải áp dụng được trong thực tiễn, nếu không sẽ là thất bại bởi mục đích của pháp luật không đạt được trong quá trình áp dụng. Vậy, để làm sao mục đích của pháp luật đạt được thì lại phụ thuộc rất nhiều vào người áp dụng pháp luật, như: Người áp dụng pháp luật có nhận thức đúng và đầy đủ tinh thần của điều luật không; việc áp dụng luật có linh hoạt hay cứng nhắc…
Tương tự, trong trường hợp áp dụng Điều 323 BLHS năm 2015 về tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chúng ta cần hiểu điều luật một cách đầy đủ, toàn diện để vận dụng linh hoạt theo hướng phù hợp với thực tiễn, phù hợp với tính chất của hành vi phạm tội này, như vậy mới đạt được mục đích của pháp luật đặt ra và đảm bảo quy định của Điều 323 BLHS đi vào cuộc sống. Nếu vận dụng cứng nhắc, hậu quả sẽ là các cơ quan tố tụng không thể xử lý được tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, trong khi tội phạm này đang tiềm ẩn sự mất an ninh trật tự rất lớn và có phần tác động đến việc phát sinh các loại tội cướp, cướp giật, trộm cắp… hiện nay.
Từ những phân tích trên, thấy rằng: Tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là một hệ quả tất yếu do nhóm tội xâm phạm sở hữu gây ra và là một hình thức tội phạm này làm phát sinh tội phạm khác, nên cần phải sớm có biện pháp để ngăn chặn mối quan hệ “cộng sinh” giữa nhóm tội xâm phạm sở hữu với tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có này. Chính vì vậy, kiến nghị liên ngành tư pháp trung ương sớm ban hành văn bản hướng dẫn tội Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau:
– Sửa đổi Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT theo hướng kết hợp với quy định của Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP ngày 24/5/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 324 của BLHS về tội rửa tiền để hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn về khái niệm “biết rõ” trong tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Trong văn bản hướng dẫn, cần đề cập việc áp dụng nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” đối với hành vi phạm tội này, tiến tới có văn bản riêng hướng dẫn, quy định nguyên tắc “hành vi khách quan thể hiện ý chí chủ quan” để áp dụng chung cho tất cả các loại tội phạm.
– Trong thời gian chưa ban hành quy định hướng dẫn cụ thể, kiến nghị lãnh đạo liên ngành tư pháp trung ương có văn bản chỉ đạo về việc cho phép vận dụng hướng dẫn tại khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 03/2019/NQ-HĐTP để áp dụng đối với tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 323 BLHS năm 2015)./.
Theo Vksndtc.gov.vn