Nội dung vụ án được đề cập trong Bản án sơ thẩm như sau:
Do vay nợ tiền và bị thúc ép trả nợ nên Hoàng Đức T và Nguyễn Thị M đã bàn với nhau dùng thủ đoạn thuê xe ô tô của các chủ xe có xe ô tô cho thuê tự lái, sau đó đem xe ô tô đi cầm cố lấy tiền trả nợ và chi tiêu.
Ngày 23/3/2018, Hoàng Đức T đã gọi điện cho anh Nguyễn Ngọc D hỏi thuê xe đi công việc và được anh D đồng ý. Sau khi thuê được chiếc xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA, loại INOVA, biển kiểm soát 21A- 019.29, có giá trị 381.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi mốt triệu đồng) của anh D, T và M đem xe xuống thành phố Hà Nội cầm cố cho anh Lê Thế H lấy số tiền 250.000.000 đồng để trả nợ và chi tiêu hết.
Đến ngày 15/4/2018, Nguyễn Thị M và Hoàng Đức T tiếp tục thuê chiếc xe ô tô nhãn hiệu KIA, biển kiểm soát 30V- 3103, có giá trị là 387.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi bảy triệu đồng) của anh Nguyễn Mạnh Th, sau đó đi lên thành phố Lào Cai cầm cố cho anh Đặng Văn T lấy 200.000.000 đồng, T chiết khấu lại 20.000.000 đồng tiền lãi, còn 180.000.000 đồng M đưa cho T đi chuộc lại chiếc xe biển kiểm soát 21A- 019.29 nhưng T không chuộc xe mà đem chi tiêu hết. Đến ngày 09/5/2018, M nhờ anh Nguyễn Xuân T là cậu họ của M đứng ra bảo lãnh để vay của anh Phạm Long A số tiền 245.000.0000 đồng để chuộc chiếc xe biển kiểm soát 30V- 3130 đã cầm cố cho anh T và đem chiếc xe về cầm cố cho anh A với số tiền 245.000.000 đồng.
Bản án sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Hoàng Đức T và Nguyễn Thị M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Về hình phạt căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T 09 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 06/6/2018; căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Qua xem xét Viện kiểm sát tỉnh thấy: Trong vụ án này, tài sản do các bị cáo Hoàng Đức T và Nguyễn Thị M chiếm đoạt là 02 chiếc xe ô tô có tổng giá trị 768.000.000 đồng (Bảy trăm sáu mươi tám triệu đồng), như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên”, có mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra cấp tỉnh và thẩm quyền truy tố, xét xử của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân cấp tỉnh nhưng vụ án lại được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân cấp huyện tiến hành điều tra, truy tố, xét xử. Việc Bản án sơ thẩm quyết định xét xử các bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng ” là chưa tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, vi phạm các Điều 163, Điều 239, Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn của liên ngành Trung ương áp dụng một số quy định về “Các tội xâm phạm sở hữu”.
Do Bản án sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, không căn cứ vào giá trị tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt dẫn đến xét xử vụ án không thuộc thẩm quyền của mình và quyết định áp dụng tình tiết định khung hình phạt không tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra nên Viện trưởng VKSND tỉnh Yên Bái đã quyết định kháng nghị toàn bộ Bản án sơ thẩm, đề nghị TAND tỉnh Yên Bái xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm nêu trên để chuyển cấp tỉnh điều tra, truy tố, xét xử lại theo quy định của pháp luật./.
Phạm Thị Thu Hà, VKS tỉnh