Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm. Bộ luật có nhiều quy định mới để thể chế hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử; cải cách thủ tục tố tụng theo hướng vừa kế thừa truyền thống pháp lý Việt Nam vừa tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đồng thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án
Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn, Điều 268 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; những vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài.
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 272 BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự gồm: (1) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân; (2) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 272 liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại Quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (Điều 273). Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
Cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung
Để bảo đảm quyền tư pháp, khách quan, công bằng, công lý, bảo đảm cho Tòa án có căn cứ để ra phán quyết chính xác, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm, BLTTHS quy định Tòa án có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; trực tiếp xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ (các điều 252, 280, 284). Theo đó, khi xét thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán chủ toạ phiên tòa yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để có căn cứ ra phán quyết, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Nếu trước khi mở phiên toàn, người tham gia tố tụng yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải có trách nhiệm giải quyết theo quy định của pháp luật. BLTTHS cũng quy định cụ thể các trường hợp và cách thức Tòa án tự mình xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ tại Điều 252 (1) (thẩm quyền này của Tòa án cũng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Luật tố tụng hành chính). Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 27/8/2010 (2).
Chú thích
(1) Điều 252. Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ
“Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ bằng các hoạt động:
1. Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp;
2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án;
3. Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án;
4. Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cần định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 215 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại;
5. yêu cầu định giá lại tài sản;
6. Trường hợp Tòa án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án.”
(2) Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật này mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; c) Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
d) Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
2. Trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có văn bản đề nghị Tòa án trả hồ sơ.
3. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó. Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án.
(Trích bài viết: “Quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của TS. Nguyễn Văn Thuân, Phó Chánh án TAND tối cao.Tạp chí Kiểm sát số 7/2016).
Kỳ sau: Giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.